Chùa Keo Hành Thiện, một trong những di tích văn hóa lịch sử nổi tiếng ở Nam Định, là điểm đến không thể bỏ qua khi khám phá văn hóa tâm linh của vùng đất này. Chính vì vậy, hãy cùng mình khám phá sự huyền bí và vẻ đẹp linh thiêng của chùa Keo Hành Thiện qua bài viết dưới đây.

Lịch sự hình thành của chùa Keo Hành Thiện

Chùa Keo trong (Thần Quang tự)

Chùa ban đầu có tên là chùa Nghiêm Quang, sau đổi thành chùa Thần Quang. Theo các nguồn tài liệu và truyền thuyết dân gian, Dương Không Lộ đã cho xây dựng chùa Nghiêm Quang vào năm Tân Sửu (1061), trong thời vua Lý Thánh Tông. Sau khi hoàn thành, Thánh tổ đã đến đây trụ trì. Chùa được xây dựng trên đất Giao Thuỷ, phủ Hải Thanh, nên sau này dân gian còn gọi theo địa danh là chùa Giao Thuỷ, có ý nghĩa là nơi nước ngọt và nước mặn gặp nhau khi triều cường. Với âm Nôm là “Keo”, chùa Giao Thuỷ còn được biết đến với tên gọi chùa Keo.

Vào năm Kỷ Hợi (1119), sau khi Dương Không Lộ qua đời đã 25 năm, vua Lý Nhân Tông đã cho tu sửa lại chùa Nghiêm Quang và cắt 3.000 hộ hương khói phụng sự. Tháng Ba, năm Đinh Hợi (1167), dưới thời vua Lý Anh Tông, chùa đã được đổi tên thành chùa Thần Quang và được ban 5 mẫu ruộng hương đăng.

Sau hai triều đại Lý và Trần, với sự thịnh vượng của Phật giáo, đến năm Mậu Tý (1588) và Tân Hợi (1611), do nước sông Hồng dâng cao, gây vỡ đê và lụt lội, chùa Thần Quang (Keo) đã bị chôn vùi sau hơn 500 năm tồn tại. Sau sự kiện này, nhân dân phải di cư đến hai nơi khác nhau để lập làng mới. Một phần di dời đến tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ (nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), còn phần khác chuyển đến vùng hữu ngạn sông Hồng, lập làng Hành Cung sau đổi tên thành làng Hành Thiện dưới thời vua Minh Mệnh (nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Dân cư ở hai nơi này đã xây dựng một ngôi chùa mới, vẫn theo phong cách thờ tự “tiền Phật, hậu Thánh”, kiến trúc “nội công, ngoại quốc” và thờ Thiền sư Dương Không Lộ, vẫn giữ nguyên tên là chùa Keo (Thần Quang Tự).

Tấm bia cổ nhất tại chùa, mang tên “Tu tạo Thần Quang tự bi ký”, được soạn vào ngày 25 tháng Tám, niên hiệu Hoằng Định 13 (1613), dưới thời vua Lê Minh Tông, đã xác nhận rằng chùa Thần Quang đã được xây dựng từ trước đó. Nội dung văn bia còn cho biết chùa là một danh lam thắng cảnh trong thiên hạ, đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Năm Mậu Thìn (1628), niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10, dưới thời vua Lê Thần Tông, chùa đã được tu sửa và mở rộng quy mô. Đến năm Tân Hợi (1671), niên hiệu Cảnh Trị thứ 9, dưới thời vua Lê Huyền Tông, chùa tiếp tục được tu sửa và kiến trúc mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII vẫn được bảo tồn, bao gồm đền Thánh và Tam quan nội kiêm gác chuông. Năm 1685, dưới thời vua Lê Hy Tông, chùa lại được tu sửa nhỏ. Năm Nhâm Ngọ (1702), niên hiệu Chính Hòa thứ 23, dưới thời vua Lê Hy Tông, chùa tiếp tục được tu sửa và đúc tượng Đức Thánh tổ Dương Không Lộ.

Sang thế kỷ XIX, chùa Thần Quang tiếp tục được trùng tu, đúc chuông, bổ sung thêm tượng và các đồ thờ khác. Năm 1929, Trường Viễn Đông bác cổ tiến hành tu sửa lớn do bị hỏng nặng sau trận bão năm 1929. Năm 1961, nhà ký đồ (phía sau đền Thánh) được đại tu và có chữ được khắc trên xà lòng gian giữa. Năm 1971, nhà tổ cũng được trùng tu. Năm 1992, xây dựng nhà khách. Năm 1997, đền Thánh và hành lang được trùng tu. Năm 1998, dân làng xây nhà trải. Năm 1999, xây cổng và tường bao khu vực vườn cảnh phía trước chùa. Năm 2003, dân làng tiếp tục tu sửa đền Thánh.

Hình ảnh chùa Keo Hành Thiện đẹp như tranh vẽ
Hình ảnh chùa Keo Hành Thiện đẹp như tranh vẽ

Chùa Keo ngoài (Đĩnh Lan tự)

Chùa Keo ngoài, hay còn được gọi là Đĩnh Lan tự, không chỉ thờ Phật mà còn thờ Bồ tát Quan Âm Nam Hải. Chùa này được xây dựng sau chùa Keo trong. Theo lịch sử Hành Thiện xã chí, chùa Keo ngoài được xây dựng vào năm Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống (1778). Trong triều Nguyễn, vào niên hiệu Minh Mệnh 13 (1832), dân làng đã xây dựng gác chuông. Sau đó, vào năm Tự Đức thứ 18 (1865), Phó bảng Đặng Kim Toán, người làng Hành Thiện và cũng là Án sát Ninh Bình, đã chủ trì công việc trùng tu lại chùa với quy mô lớn. Tiếp đó, vào niên hiệu Thành Thái 13 (1901), Tri huyện Nguyễn Ngọc Quỳnh, người làng Hành Thiện, cùng dân làng đã xây thêm hai dãy hành lang. Năm Đinh Mùi, niên hiệu Duy Tân (1907), quan huyện Nguyễn Đôn Thi đã hưng công sửa chữa cây đèn và gác chuông, và vào năm Mậu Ngọ, niên hiệu Khải Định 3 (1919), ông lại hưng công làm mái cúng trước chùa và Nhà thờ Tổ.

Chùa đã trải qua nhiều biến cố sau thời gian, bị tác động bởi thời tiết khắc nghiệt và chiến tranh. Từ năm 1990, dân làng Hành Thiện đã nhiều lần tiến hành trùng tu và tôn tạo chùa: trùng tu Hành lang phía Đông (năm 1990), trùng tu Hành lang phía Tây (năm 1994), trùng tu Gác chuông, xây cổng, tường và cây đèn (năm 2000), xây kè hồ nước phía trước chùa (năm 2004)…

Khuôn viên bên trong chùa Keo Hành Thiện

Chùa Keo trong (Thần Quang tự)

Chùa nằm trên một khu đất rộng hơn 1ha ở làng Hành Thiện, hướng về phía Nam và được bao quanh bởi dòng sông. Kiến trúc của chùa này là một tổng thể phức hợp, bao gồm nhiều công trình được sắp xếp theo một trật tự nhất định trên một khuôn viên hình chữ Nhật, được gọi là “nội công, ngoại quốc”. Các công trình được bố trí đối xứng và cân đối, theo một trục dọc – đường thần đạo.

Tam quan ngoại được xây dựng với kiểu tường hồi bít đốc, có chiều dài, rộng và cao lần lượt là 7,60m, 6,90m và 5,60m. Cấu trúc của tam quan này có bốn bộ vì kiểu 3 hàng chân cột, với các cấu kiện gỗ được trang trí tinh tế, mang đậm phong cách kiến trúc đầu thế kỷ XX.

Tam quan nội kiêm gác chuông là một công trình khác được xây dựng sát bên đường đi và gần hồ nước. Cấu trúc của nó là hình chữ Nhật, có 5 gian và 2 tầng, với các cấu kiện gỗ được trang trí theo phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê.

Chùa cũng bao gồm các công trình như Chùa Phật, Đền Thánh, Nhà Ký đồ, Hành lang, Nhà Tổ, Nhà oản, nhà bếp, Phủ Mẫu, Nhà khách và Nhà trải. Mỗi công trình đều mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Việt Nam từ thế kỷ XVII, với các chi tiết trang trí phong phú như rồng, lân, hoa sen, vân xoắn và các đề tài khác.

Chùa Keo ngoài

Chùa nằm trên một khu đất rộng 1 mẫu ở Bắc Bộ, hướng về Đông Bắc, được xây dựng theo kiểu “nội công, ngoại quốc”, bao gồm Tam quan, Hành lang Tả/hữu, Chùa chính, Gác chuông và Nhà Tổ. Trong số này, Chùa chính và Gác chuông là hai công trình nổi bật với giá trị kiến trúc nghệ thuật cao.

Chùa chính có mặt bằng hình chữ Công, bao gồm Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Tiền đường có 5 gian (3 gian chính và 2 gian chái), dài 10,30m và rộng 3,80m, được xây dựng bằng gỗ lim kiểu 4 hàng chân cột. Thiêu hương và Thượng điện có kết cấu tương tự, với Thiêu hương là hai gian nối tiếp Tiền đường, và Thượng điện được chia thành 3 gian (1 gian chính và 2 gian chái).

Gác chuông nằm phía sau Thượng điện, cao 1,60m, được xây trên nền đất cao hình chữ Nhật có kích thước 6,70m x 5m. Gác chuông được làm bằng gỗ lim, có kiểu chồng diêm 2 tầng và 8 mái. Công trình chịu lực chính được đặt trên 2 cột cái có kích thước cao 3,90m và đường kính 30cm, với 10 cột quân xung quanh đường kính 20cm.

Hình ảnh lễ hội hằng năm tại chùa Keo Hành Thiện
Hình ảnh lễ hội hằng năm tại chùa Keo Hành Thiện

Top 4 địa điểm du lịch gần chùa Keo Hành Thiện

1. Nhà lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh

2. Tòa Giám mục Bùi Chu

3. Đền Xuân Bảng

4. Vương cung Thánh đường Phú Nhai

Một số hình ảnh chùa Keo Hành Thiện

Lễ hội đua thuyền ở chùa Keo Hành Thiện
Lễ hội đua thuyền ở chùa Keo Hành Thiện
Hình ảnh chùa Keo Hành Thiện mang vẻ đẹp cổ kính
Hình ảnh chùa Keo Hành Thiện mang vẻ đẹp cổ kính
Hình ảnh di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo Hành Thiện
Hình ảnh di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo Hành Thiện
Hình ảnh lễ hội mùa thu ở chùa Keo Hành Thiện
Hình ảnh lễ hội mùa thu ở chùa Keo Hành Thiện
Hình ảnh cảnh quan xung quanh chùa Keo Hành Thiện
Hình ảnh cảnh quan xung quanh chùa Keo Hành Thiện

Đến chùa Keo Hành Thiện, du khách không chỉ được thưởng ngoạn vẻ đẹp kiến trúc cổ kính mà còn có cơ hội tìm hiểu về lịch sử và văn hóa tinh thần của dân tộc. Đây là điểm đến không thể bỏ qua đối với những ai yêu thích khám phá và tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn.

 

Rate this post